bg-header
bg-header

  • block home
  • Trang chủ » KHÁI QUÁT DIỆN MẠO LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
  • block sep
Ngày đăng: 10/02/2014, 10:05 sáng, cập nhật ngày 01/07/2014 10:47
Luợt xem: 1 305 lần , Đánh giá: 1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars Loading...

KHÁI QUÁT DIỆN MẠO LÀNG NGHỀ VIỆT NAM

KHÁI QUÁT DIỆN MẠO LÀNG NGHỀ VIỆT NAM

Sản phẩm tiêu biểu làng nghề Việt Nam

 Sản phẩm tại một số làng nghề điển hình

Hiện nay, nước ta có hơn 2.000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá… trải dài từ Bắc vào Nam. Nó thể hiện rõ bản sắc cũng như đặc trưng diện mạo nông thôn và nhiều đô thị Việt Nam. Những cái nôi của làng nghề là Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai, BếnTre…

Vùng đồng bằng Bắc Bộ có mật độ làng nghề truyền thống khá cao, chiếm 2/3 tổng số làng nghề cả nước với những sản phẩm nổi danh như: Lụa Vạn Phúc, đồ gỗ Đồng Kỵ, đồ đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, cốm Vòng… Miền Trung có điêu khắc Mỹ Xuyên, tranh làng Sình, nón Phú Cam, đá Non Nước, gốm Thanh Hà… ở các tỉnh phía Nam, ven các con sông và ngoại vi thành phố cũng hình thành những làng nghề, khu dân cư với các nghề thủ công lâu đời như đá Bửu Long, gốm Tân Vạn, sơn mài Tương Bình Hiệp; các làng nghề nhân giống, chiết cành, tạo dáng bon-sai nổi tiếng ở Sài Gòn, Bến Tre, An Giang…

 

Những năm qua, các làng nghề truyền thống của Việt Nam có tốc độ phát triển khá mạnh mẽ. Nếu như năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mới đạt 274 triệu USD, thì năm 2006 đã đạt khoảng 650 triệu USD, năm 2008, ước tính đạt xấp xỉ 1 tỉ USD. Các mặt hàng được bán trên 100 nước và vùng lãnh thổ, chưa kể hai ngành gỗ, da giày xuất khẩu mỗi năm đạt giá trị hàng tỉ USD đều có đóng góp rất lớn của các làng nghề. Ước tính các làng nghề Việt Nam đang sử dụng trên dưới 1,5 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và từ 4 – 5 triệu lao động thời vụ. Rõ ràng làng nghề có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, trực tiếp giải quyết việc làm ở nông thôn. Các làng nghề còn góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống, tạo ra diện mạo đô thị hóa mới cho nông thôn, để nông dân “ly nông nhưng không ly hương” và làm giàu trên quê hương mình.

Hiện nay, thu nhập của người lao động hưởng lương mỗi tháng ở các làng nghề phổ biến khoảng 2- 3 triệu đồng, nói chung cao hơn nhiều so với những người làm ruộng lúa, đặc biệt là ở vùng đất hẹp người đông như đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt, khu vực kinh tế làng nghề còn có thể sử dụng được lao động già cả, khuyết tật, trẻ em mà khác khu vực kinh tế khác không nhận.

 

Dù có những bước tiến đáng kể, song nhìn tổng thể, sự phát triển của các làng nghề Việt Nam vẫn thiếu một định hướng ổn định, bền vững dẫn tới tình trạng mạnh ai nấy làm, manh mún, tự phát. Nguyên nhân lớn nhất là chúng ta thiếu một “nhạc trưởng” chịu trách nhiệm chính trong quy hoạch, phát triển làng nghề thủ công truyền thống.

Hạn chế lớn nhất là khả năng tiếp cận vốn, tìm kiếm thị trường, khả năng sáng tạo mẫu mã, công nghệ mới. Sự khó khăn trong tiếp cận vốn khiến quy mô sản xuất của các làng nghề nhỏ và mang tính thời vụ, ăn xổi dẫn đến tình trạng phá giá, cạnh tranh không lành mạnh, làm cho các làng nghề không thể bứt phá, xây dựng những thương hiệu có uy tín.

Việc không tạo dựng được thương hiệu khiến năng lực tiếp cận các thị trường lớn, thị trường mới rất hạn chế, phần lớn sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều phải xuất qua khâu trung gian. Khả năng sáng tạo mẫu mã mới phù hợp với gu thẩm mỹ của các thị trường như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Đông… lại rất hạn chế nên chỉ thực hiện chức năng gia công thay vì có được những sản phẩm thủ công đúng nghĩa, mang bản sắc văn hóa dân tộc, độc đáo.

 

Kinh tế nông thôn gắn liền với nông nghiệp có nhiều hạn chế, nông dân rất khó làm giàu. Làng nghề đã mở ra cho nông dân một hướng làm ăn khác ngay trên mảnh đất của mình.

Để các làng nghề phát triển, cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Bản thân các cơ sở sản xuất ở làng nghề phải biết liên kết với nhau để thành những cơ sở, những doanh nghiệp mạnh ngay trên địa bàn. Từ đó có thể bước ra thị trường và theo sát được nhu cầu của thị trường.

Nhưng vấn đề quan trọng là, Nhà nước với các chính sách, nguồn vốn của mình cần chú trọng đến các doanh nghiệp lớn, đồng thời chăm sóc các doanh nghiệp nhỏ, các cơ sở sản xuất ở làng nghề. Chỉ khi nào Nhà nước quan tâm thích đáng hỗ trợ phát triển thành phần kinh tế tư nhân ở làng nghề thong qua chính sách thông thoáng, nguồn vốn dễ tiếp cận, hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ đào tạo nghề, giúp đỡ giải quyết ô nhiễm môi trường… thì các làng nghề mới phát triển được như mong muốn.

 

Ngày 20-05-2005, Đại hội lần thứ nhất Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đã họp tại Hà Nội, với sự tham gia của 250 đại biểu của các làng nghề, hội và câu lạc bộ ngành nghề và một số nghệ nhân, nhà quản lý, nhà văn hóa quan tâm đến việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống.

Đại hội đã đề ra 6 chương trình hành động của Hiệp hội bao gồm chương trình chấn hưng và phát triển làng nghề; phát triển doanh nghiệp làng nghề; xúc tiến thương mại; thông tin; văn hóa – du lịch và đối ngoại. Việc triển khai tốt các chương trình này nhất định góp phần chấn hưng và phát triển làng nghề, bảo tồn và phát huy các ngành nghề truyền thống Việt Nam.

 

Mỹ nghệ Đồng Đại Bái

Kính chúc quý khách an khang thịnh vượng !

Tin tức khác